Tổng quan nền Kinh tế Việt Nam

Việt Nam bắt tay vào đổi chính sách mới vào năm 1986 và trong thời điểm đó, nền kinh tế cả nước đã có những chuyển biến đáng kể, đặc biệt là sự thay đổi trong tư duy của người Việt. Nền Kinh tế kế hoạch tập trung (Hay còn gọi là Nền kinh tế chỉ huy) được thay thế bởi thị trường có định hướng Xã hội Chủ nghĩa, ví dụ như nền kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa quốc gia đã được khởi xướng cùng với các chính sách mở cửa, chính sác kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế. Công cuộc đổi mới được thực hiện đã giúp cho Việt Nam giảm tỉ suất đói kém và đặt nền tảng ban đầu cho một nền kinh tế công nghiệp phát triển, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và xã hội tương đối đồng đều.

Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên được thực hiện dựa vào khung pháp lý của thị trường Kinh tế Việt Nam. Năm 1991, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật kinh doanh được ban hành. Các sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định sự tồn tại và phát triển của một nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế mũi nhọn, kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là việc ban hành một số luật cần thiết cho sự hình thành của nền kinh tế thị trường, trong đó có Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật Môi trường, Luật Lao động, vv.

Hàng trăm pháp lệnh và nghị định đã được Chính phủ ban hành nhằm hướng dẫn thi hành các Luật trên, phục vụ cho sự phát triển của nền Kinh tế- Xã hội Quốc gia.

Cùng với quá trình xây dựng pháp luật, thể chế Kinh tế trọng điểm cũng đã được thành lập. Đó là chính sách của Chính phủ nhằm loại bỏ cơ chế kế hoạch tập trung, nhấn mạnh mối quan hệ tiền tệ-thị trường, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế và thực hiện một loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng và thị trường cơ bản với nguồn tiền tệ, lao động, hàng hóa, đất đai … Cuộc cải cách hành chính từ năm 2001 – 2010 đã nhấn mạnh việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, sự sửa đổi pháp luật và cải tiến nền quản trị kinh tế. Những thay đổi này giúp thiết lập một cơ chế năng động nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.

Nhìn chung, cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ diễn ra trong gần hai thập kỷ quá đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Việt Nam đã tạo ra một môi trường kinh tế cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế đa thành phần được khuyến khích phát triển, từ đó huy động một cách hiệu quả mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã được mở rộng làm cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng. Xuất khẩu hàng hoá và lao động, ngành công nghiệp du lịch từ nước ngoài đã giúp nguồn kinh tế Việt Nam được thúc đẩy, tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ cho Việt Nam. Theo như chỉ số GDP tăng lên khá mạnh mẽ, thì nền cơ cấu kinh tế Việt Nam cũng đã có ​​những thay đổi đáng quan tâm. Từ năm 1990 đến năm 2011, ngành nông nghiệp giảm từ 38,7 % xuống 22,02 % , trong khi đó các ngành công nghiệp và Xây dựng tăng từ 22,7 % lên 40,25 % . Các ngành dịch vụ khác duy trì tương đối ổn định ở con số 38,6 vào năm 1990 và 37,7 % vào năm 2011. Cấu trúc kinh tế trong các ngành khác cũng đã có sự chuyển dịch tích cực. Vai trò của ngành nông nghiệp- lâm nghiêp đã giảm xuống, từ 84,4% đến 82,18 % trong giai đoạn 1990-2011 , cùng thời điểm, ngư nghiệp đạt được một tỷ lệ cao hơn. Trong lĩnh vực công nghiệp , tỷ trọng công nghiệp chế biến với chất lượng sản phẩm được cải thiện rõ rệt tăng từ 12,3 % từ năm 1990 lên 19.40% trong năm 2011. Trong lĩnh vực dịch vụ, các dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiệm, du lịch, ngày càng gia tăng nhanh chóng và mạnh mẽ.

Nền kinh tế đang thực hiện rất tốt trên con đường đến với mô hình Đa ngành theo thể chế thị trường dựa trên quy định của Nhà nước. Điều này có nghĩa rằng những lĩnh vực ngành nghề tư nhân được tự do phát triển mà không có sự ngăn cấm của luật pháp. Khuôn khổ pháp lý đã được sửa đổi để thay đổi từng bước nền kinh tế kế hoạch tập trung cũ sang một thị trường mới, giải phóng năng lực sản xuất, huy động nguồn lực hiệu quả và tạo đòn bẩy cho sự tăng trưởng kinh tế.

Theo như sự cải thiện Luật công vào năm 2000, thì doanh nghiệp tư nhân đã được hưởng khuyến khích mạnh mẽ để phát triển. Chính Luật này đã lập nên sự tự do cho các kinh doanh tư nhân trong việc hoạt động trong mọi lĩnh vực mà không bị ngăn cấm . Nó cũng đã loại bỏ được những trở ngại và cản trở hành chính khó khăn, ví như thủ tục cấp phép phức tạp hoặc lệ phí, vv.Trong giai đoạn từ năm 2000- 2004, 73.000 xí nghiệp được đăng ký , tăng 3,75 lần so với giai đoạn những năm 1991 đến năm 1999. Vào năm 2008, tổng số xí nghiệp tư nhân hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã lên tới 197.000 – với tổng vốn đầu tư là 2,723,008 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, cổ phiếu khu vực tư nhân trong Tổng sản phẩm nội địa (GDP) đã tăng từ 3,1 % đến 4,1%, các lĩnh vực Phi chính phủ khác tăng từ 4.4 % đến 4,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4 % lên 14% và khu vực theo Hộ gia đình đã giảm từ 35,9 % xuống còn 31,2 % . Luật Doanh nghiệp năm 2005, được áp dụng cho đầu tư doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, có hiệu lực từ ngày 01/07/2006, mang lại nhiều khuyến khích kinh tế dựa trên quyền bình đẳng và nghĩa vụ Doanh nghiệp của tất cả các loại hình sở hữu.

Nhằm nâng cao năng suất của khu vực đầu tư Nhà nước, các chính sách đã được xây dựng với sự đo lường cụ thể, nhằm điều chỉnh và tái tổ chức doanh nghiệp nhà nước. Sự quản lý tài chính của Doanh nghiệp với vốn chủ sở hữu nhà nước đã được tăng cường. Ngoài ra, quá trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước đã được vận hành tốt. Nếu như ngành công nghiệp đa ngành phát triển mạnh, thì tỷ trọng GDP của doanh nghiệp Nhà nước lại giảm từ 40,1% xuống 38,3% (1991- 2003). Kinh tế tập thể giảm từ 10,2 % xuống 7,9% trong cùng thời kỳ . Trong năm 2002 và 2003, 1655 doanh nghiệp nhà nước được liệt vào danh sách sắp xếp, đổi mới. Từ năm 2004- 2005, con số tăng lên từ 413 đến 882 cho thấy rằng, Việt Nam đã thành công trong việc mang lại thành tích  nền kinh tế vào sự tiến bộ xã hội. Lợi ích của quá trình cải cách được phân bổ đồng đều cho hầu hết người dân. Tăng trưởng kinh tế đã kết hợp với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển sức khỏe và giáo dục. Chỉ số phát triển của người dân Việt Nam tăng từ 0.583 vào năm 1994, thể hiện bằng sự thăng hạng trong bảng xếp hạng từ 120/ 174 tới 108/177 vào năm 2005. Tuổi thọ trung bình đã tăng từ khoảng 50 trong những năm 1960 đến 72 vào thời điểm hiện tại.Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70% từ năm 1980 xuống dưới 7% vào năm 2005.

 

Ngoại thương và Hội nhập Kinh tế quốc tế

Các chính sách rộng mở và công nghiệp hóa đã mở ra những cơ hội mới cho Việt Nam để tận dụng những lợi thế vốn có, ví dụ như nguồn Tài nguyên thiên nhiên rộng lớn, lực lượng lao động dồi dào và chi phí lao động thấp . Những lợi thế này đang được tận dụng để nâng cao kim ngạch xuất khẩu Việt Nam, tạo ra dòng chảy thu nhập nước ngoài, phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa. Trong những năm cải cách, sự tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam đã tăng lên 20%. Từ khoảng nửa triệu USD trước sự ra đời của chính sách Đổi Mới, tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 71,6 tỷ USD vào năm 2010 .

Cơ cấu xuất khẩu cũng đã cho thấy sự thay đổi tích cực. Thời kì những năm 1991- 1995, kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam là dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Năm 2005, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dầu thô, may mặc và dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, thiết bị điện tử và gạo. Cấu trúc này phản ánh sự gia tăng đối với các sản phẩm đã qua chế biến- sản xuất, và sự sụt giảm đối với các sản phẩm chưa qua chế biến bao gồm nông nghiệp , thuỷ sản, lâm sản và khoáng sản. Với những thay đổi đó, dù gì các sản phẩm xuất khẩu chưa qua chế biến vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn. Do vậy, cần phải có nhiều nỗ lực hơn trong việc tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp.

Chính sách đa dạng hóa Quan hệ Quốc tế đã giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền Kinh tế Thế giới và khu vực. Trước năm 1990, Việt Nam có khoảng 40 mối quan hệ hợp tác Thương mại quốc tế. Hiện nay, với chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam hầu như có thể hợp tác trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các quốc gia trên thế giới, minh chứng là mối quan hệ ngoai giao với 170 quốc gia, ký kết các Hiệp định thương mại Song phương với hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm các nước như Mỹ, Nhật Bản, các nước châu Âu, vv.

Sau sự ra đời của Công cuộc đổi mới, Việt Nam đã ký thỏa thuận Hợp tác Kinh tế và Thương mại với Cộng đồng Liên minh châu Âu (EU) vào năm 1992, gia nhập ASEAN vào năm 1995, AFTA vào năm 2001 và APEC vào năm 1998. Việt Nam cũng đã ký Hiệp định Thương mại Song phương với Hoa Kỳ vào năm 2000, đàm phán gia nhập WTO vào năm 1995 và trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm 2007.

 

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tháng 12 năm 1987, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã được đưa ra nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như đáp ứng yêu cầu kinh doanh và phản hồi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Các luật này đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, đặc biệt vào năm 1996 và năm 2002, giúp tạo ra một môi trường kinh tế cởi mở và hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm như định hướng xuất khẩu và sản xuất, các khu vực Kinh tế trọng điểm của đất nước.

Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, đã, đang và sẽ là một sự tiến bộ vượt bậc trong việc tạo ra một môi trường kinh tế hấp dẫn với các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào bất kỳ khu vực nào dựa theo Pháp luật (Trừ các khu vực bị cấm), thay vì chỉ được đầu tư vào các khu vực được cho phép bởi Cơ quan nhà nước. Nguyên tắc này đã được áp dụng cho khu vực tư nhân trong nước từ năm 2000. Ngày nay, nó cũng được áp dụng cho kinh doanh có nguồn đầu tư nước ngoài.

Thêm vào đó, Chính phủ Việt Nam cũng thực hiện một số điều chỉnh và tiến hành cải cách để tạo ra động lực cho các nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ như việc giải quyết những trở ngại kinh doanh, giảm thuế thu nhập cá nhân, áp dụng chính sách một cửa giảm thuế viễn thông để đạt được tính cạnh tranh cao so với các nước khác trong khu vực, cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng phạm vi đầu tư. Kể cả những ngành từng không mở rộng hoạt động với nước ngoài như ngành viễn thông, bảo hiểm, siêu thị, vv, giờ đây cũng rất thoải mái trong việc kết hợp liên doanh. Việt Nam đã trở thành khu vực kinh tế vô cùng hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.

Các biện pháp được đề cập trên đây có lợi ích rất lớn cho việc phục hồi và gia tăng nhanh chóng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm 2005. Mức tăng trưởng mạnh mẽ của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là nhờ vào sự ổn định chính trị, kinh tế và an ninh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự cải cách kinh tế không ngừng theo nguyên tắc kinh tế thị trường, mức sống được cải thiện. Do đó nhu cầu tiêu dùng trong nước cao hơn, hội nhập quốc tế lớn hơn và các mặt hàng xuất hiện nhiều hơn trên thị trường Thương hiệu quốc tế. Việt Nam đang phát ngày càng phát triển danh tiếng của mình trên thị trường nước ngoài.

Trong những năm qua, Việt Nam đã thu hút được dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ngày càng lớn. Từ một con số không đáng kể vào năm 1986, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã đạt đến 3, 2 ​​tỷ USD trong năm 1997. Do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào năm 1997, dòng vốn FDI có dấu hiệu sụt giảm trong giai đoạn 1998-2000, với con số 1,58 tỷ USD vào năm 1999. Trong một vài năm qua, Việt Nam đã phục hồi từ 2,6 tỷ USD năm 2001 lên 21,48 tỷ USD trong năm 2009 và 18,5 tỷ USD trong năm 2010. Dòng vốn FDI không chỉ tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn thể hiện là một nguồn vốn quan trọng, mang lại nền chuyển giao công nghệ và kỹ năng kinh doanh tiên tiến.

Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban bố vào năm 1997, đến tháng 3 năm 2011 đã có 12,587 dự án được cấp phép với nguồn vốn đăng ký lên tới 196,49 tỉ USD, bỏ qua các dự án đã hết hạn hoặc bị thu hồi từ. 49% là các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó 30% là các dự án bất động sản và thu hẹp thương mại.

Vào tháng 3 năm 2011, các nhà đầu tư từ 92 quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam.Top năm quốc gia được đầu tư vào Việt Nam là Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và Malaysia. Số dự án được cấp phép với năm nước này chiếm đến 60,8% Tổng vốn đầu tư và 54,6% nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Năm quốc gia tiếp theo là British Virgin Island, Hoa Kỳ, Hồng Kông, Quần đảo Cayman và Thái Lan. Top mười quốc gia đầu tư vào Việt Nam chiếm tới hơn ba phần tư các dự án được cấp phép và tổng số vốn đăng ký nước ngoài tại Việt Nam.

Hiện nay, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã hiện diện trên hầu hết địa bàn các tỉnh và thành phố tại Việt Nam. Rất nhiều bộ phận đầu tư đã được đặt tại các khu vực kinh tế trọng điểm ở miền Nam (Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương) và miền Bắc (Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh) . Đặc biệt là ở Hà Nội và Hồ Chí Minh, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển hơn, yêu cầu tiêu dùng cao hơn và lực lượng lao động có tay nghề hơn.

Trong những năm gần đây, tổng số dự án với hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã tăng lên đáng kể. Các dự án đó hiện là 78,5% số dự án được cấp phép và là  62% tổng vốn đăng ký, trong khi các doanh nghiệp liên doanh lần lượt chiếm 18,1% và 30,6%. Còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh, hình thức Xây dựng- Kinh doanh- Chuyển giao (BOT), các công ty cổ phần, vv.

Khu vực vốn đầu tư nước ngoài đã tăng trưởng nhanh chóng, dần dần khẳng định là một thành phần tích cực của nền kinh tế và đã có những đóng góp quan trọng giúp nhấn mạnh khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế. Trong những năm gần đây, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vào khai thác dầu khí, công nghiệp ô tô, sản xuất đồ điện lạnh, máy giặt, điều hòa, thiết bị văn phòng. Khoảng 60%  vốn đầu tư nước ngoài  dành cho lĩnh vực sản xuất thép, 28% vào sản lượng xi măng, 33% vào các thiết bị điện tử và 76% vào các thiết bị chăm sóc sức khỏe.

 

Leave a Comment